Khi nhắc đến mảnh đất vùng Tây Nam Bộ chúng ta không thể quên được hình ảnh những người người dân giản dị, mộc mạc mà đậm chất tình trong hình ảnh chiếc áo bà ba nhẹ nhàng kết hợp cùng khăn rằn. Chiếc khăn rằn chính là biểu tượng vô cùng độc đáo và làm nên nét văn hóa đặc trưng của miền Tây Nam Bộ mà không lần vào một vùng quê nào khác.
Khăn rằn đã đi cùng người dân miền Tây Nam Bộ trong những năm tháng chiến tranh khó khăn nhất cho đến tất hôm nay vô cùng gần gũi đối với mọi người. Cho đến nay, nó chính là một biểu tượng của miền đồng bằng sông nước. Vậy hãy cùng chúng tôi tìm hiểu chi tiết hơn về nguồn gốc cũng như những đặc điểm đặc trưng của chiếc khăn rằn trong văn hóa người Nam Bộ nhé.
Khăn rằn xuất phát từ khăn Krama của người Khmer
Chẳng biết chiếc khăn rằn có từ bao giờ, chỉ biết chiếc khăn. Xuất phát từ khăn Krama của người Khmer gốc Campuchia. Rồi trong quá trình cộng cư ở Nam Bộ mà đến với các dân tộc khác. Chiếc khăn rằn cùng chiếc áo bà ba đã trở thành hình ảnh gần gũi với mọi người. Như là một biểu tượng cho người phụ nữ đồng bằng sông Cửu Long cần cù, chịu khó.
Nhưng theo lời của những bậc cao niên thì chiếc khăn rằn Nam Bộ. Bắt nguồn từ khăn krama của người Khmer, do quá trình cộng cư. Cùng các dân tộc khác, chiếc khăn đã được thay đổi cho phù hợp. Gần gũi và gắn liền với người dân miền sông nước Nam Bộ.
Về với Việt Nam, chiếc khăn qua sự giao thoa ngôn ngữ. Giữa người Việt và Khmer. Kể từ đấy, chiếc khăn rằn Nam Bộ ra đời. Người Việt học theo người Khmer làm khăn. Ngâm sợi vải trong bột hồ 3 ngày 3 đêm sau đó mang đi dệt. Sợi vải ngâm trong bột hồ lúc đầu cứng. Nhưng càng dùng khăn càng mềm. Đó là một trong những đặc điểm vô cùng độc đáo của những chiếc khăn rằn này.
Khăn rằn thường có hai màu đen và trắng hoặc nâu và trắng
Chiếc khăn rằn thường có hai màu đen và trắng hoặc nâu và trắng. Hai màu này đan chéo nhau. Tạo thành ô vuông nhỏ, trải dài khắp mặt khăn. Và có lẽ các lằn ngang dọc ấy là gốc gác của tên gọi khăn rằn. Chiếc khăn rằn có chiều dài khoảng 1,2m. Rộng 40–50 cm, không cầu kỳ, sặc sỡ mà bình dị, đơn giản.
Trước đây, nó thường được dùng để làm đẹp thêm. Cho những bộ trang phục ngày hội, nhưng sau này. Chiếc khăn rằn đã trở nên gần gũi hơn với người dân lao động. Khi nó ngày càng được sử dụng phổ biến trong lao động, sản xuất.
Người nam thường quấn khăn rằn quanh trán khi làm việc để cản mồ hôi rơi xuống mắt. Người nữ hay quàng khăn vào cổ, hai tà để phía trước ngực áo dùng để lau mồ hôi. Đôi khi hai đầu khăn được buông xuôi xuống phía trước, đi với bộ quần áo bà ba làm nên nét đặc trưng rất duyên của cư dân Nam Bộ.
Khăn rằn đã trở thành một vật dụng tiện lợi và thân thiết cho mọi người
Vì vậy, khăn rằn đã trở thành một vật dụng tiện lợi và thân thiết cho mọi người, mọi giới trong lao động, chiến đấu và sinh hoạt, để che cơn nắng, thấm dòng mồ hôi, chắn ngọn gió lốc, cả để lau khô dòng nước mắt hay giấu đi một nụ cười. Chiếc khăn rằn là nét đặc trưng riêng cho bản sắc văn hóa của người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Nếu như những cô gái xứ Huế thướt tha trong tà áo dài tím mộng mơ, thì những cô thôn nữ Nam bộ lại dịu dàng, mộc mạc trong chiếc áo bà ba cùng quàng trên cổ. Hình ảnh bình dị luôn xuất hiện với hình ảnh người dân miền Tây thật thà, chất phác. Không biết từ bao giờ mà nó đã gắn bó với con người, mảnh đất ấy. Không biết kể từ khi nào chiếc khăn rằn xuất hiện với hình ảnh chiếc áo bà ba, đã trở thành biểu tượng của cả một vùng miền, một văn hóa.
Khăn rằn mãi là biểu tượng đặc trưng của con người đất phương Nam
Và ngày nay, chúng không chỉ xuất hiện với hình ảnh người dân miền Tây Nam Bộ, những chiếc khăn rằn theo chân người trẻ thích phượt đến mọi miền tổ quốc. Khoác trên mình chiếc áo cờ đỏ sao vàng và quàng lên cổ tấm khăn rằn Nam Bộ… người trẻ chọn cho mình cách thể hiện tình yêu với quê hương, đất nước rất riêng.
Ngày nay, có lẽ đã có nhiều thay đổi trong văn hóa trang phục, nhưng chiếc khăn rằn Nam bộ trước sau vẫn mãi là một hình ảnh đẹp, một biểu trưng cho sự duyên dáng của những cô gái cũng như những tấm lòng chân tình, nồng hậu của con người đất phương Nam.